Blog

Joe's Food Blog

Chúng ta viết blog, đọc blog, nhưng có ai biết ngày blog (Blog Day) là ngày nào không?

Nghe hỏi thế, chắc chắn có bạn sẽ cười: "Vớ vẩn, làm gì có ngày đấy?"

Thế mà có đấy.

Blog Day chính là hôm nay 31.8.

Chẳng những thế mà ngày này còn được kỷ niệm rộng rãi trên thế giới, và năm nay là lần thứ 6 rồi.

Bởi vì Blog Day được kỷ niệm lần đầu tiên vào năm 2005, cũng là năm mà phong trào blogging manh nha ở Việt Nam.

Blog Day là gì?

Là ngày mà những người viết blog (blogger) biết thêm những người bạn viết blog từ các nước khác, hoặc viết blog về những mối quan tâm khác nhau. Trong ngày này các blogger sẽ giới thiệu 5 blog tiêu biểu cho những người đến đọc blog của mình, để họ làm quen, khám phá những blog mà trước đây họ chưa biết tới.

Hãy liệt kê 5 blog mới khác biệt với blog của bạn về tư duy, sở thích, lối sống...; giới thiệu ngắn về 5 blog đó và đính kèm đường link.

Và đây là 5 blog giới thiệu với mọi người trong Blog Day 31.8 (những blog này chưa có trong danh sách giới thiệu blog hay của tôi):

- Blog Thich Hoc Toán. Tác giả là ai thì mọi người đều biết. Giới thiệu blog này dễ bị mọi người đánh giá là xu thời, nhưng quả thật, nó rất đáng đọc.
- Blog của 5 xu. Chả biết giới thiệu thế nào. Mọi người vào đọc thì biết.
- Mèo Điệu. Một cô nương ở Sài Gòn, thích phượt, mà phải là phượt xa. Vừa đi Tây Tạng về với loạt entries ảnh rất đẹp.
- Đông A. Một người có tư duy sắc bén và độc đáo.
- Nguyễn Xuân Diện. Tiến sĩ Hán Nôm. Thường xuyên có các entries hay về văn hóa dân tộc khá đặc sắc.



Nguồn : Blog vmcinhanoi
Quy luật tập trung
Vũ khí mạnh mẽ nhất trong marketing là gắn được một từ ngữ vào tâm trí khách hàng.
 Một công ty có thể trở nên thành công vượt bậc nếu họ tìm cách đưa được một từ ngữ hoặc một cụm từ vào tâm trí của khách hàng tiềm năng. Đó không phải là một từ ngữ phức tạp, cũng không phải là từ ngữ quá bay bổng. Tốt nhất là từ đơn giản, những từ có thể lấy ngay từ trong từ điển ra.
Đây chính là nội dung của quy luật Tập trung. Bạn mở đường vào tâm trí khách hàng bằng cách thu hẹp diện tập trung của khách hàng vào một điểm - một từ hoặc cụm từ duy nhất. Điều đó đòi hỏi sự hy sinh tột bực trong marketing. Federal Express đã có thể gán từ "overnight" (ngay lập tức) vào tâm trí khách hàng tiềm năng, bởi vì họ đã "hy sinh" cả dòng sản phẩm mà chỉ tập trung sự chú ý của khách hàng vào khả năng giao hàng "overnight".
Quy luật Tiên phong cũng phát huy hiệu quả theo cách này. Nó cho phép thương hiệu đầu tiên hoặc công ty đầu tiên bước vào thị trường gán được một từ, hoặc một cụm từ vào tâm trí khách hàng. Từ hoặc cụm từ đó đơn giản đến mức trở thành một thứ vô hình.
Thương hiệu đi đầu sẽ mang một từ đại diện cho cả sản phẩm hay dịch vụ thuộc lĩnh vực nào đó. Ví dụ, IBM đã gán thành công từ "máy tính" vào tâm trí khách hàng. Nói cách khác, thương hiệu của IBM đã trở thành cái tên chung để chỉ cả dòng sản phẩm máy tính. "Tôi muốn mua một máy IBM". Nghe nói vậy, có ai không hiểu là người nói đang cần mua một chiếc máy tính không nhỉ?
Bạn cũng có thể kiểm tra giá trị của việc trở thành người tiên phong bằng cách kiểm tra sự liên hệ giữa một thương hiệu với từ, hoặc cụm từ, tương ứng. Nếu các cụm từ được liệt kê ra đây là: "máy tính", "máy photocopy", "sô-cô-la", "cola", thì bốn thương hiệu có liên hệ chặt chẽ nhất với chúng là: IBM, Xerox, Hershey's, và Coke.
Người đi đầu thông minh sẽ đi một bước xa hơn để củng cố vị trí của mình. Heinz bắt được từ "ketchup" (nước xốt cà chua). Nhưng họ còn đi xa hơn: làm nổi bật thuộc tính quan trọng nhất của nước xốt cà chua, là "chảy chậm". Với khẩu hiệu "Slowest ketchup in the West" (nước xốt cà chua chảy chậm nhất miền Tây), Heinz đã sở hữu được tính năng "độ đậm đặc" mà các đối thủ cạnh tranh đến sau muốn nhắm đến. Gây ấn tượng với khách hàng nhờ tính năng "chảy chậm" đã giúp Heinz duy trì 50% thị phần.
Nếu không phải người đi tiên phong, thì từ ngữ mà bạn chọn để đại diện cho sản phẩm của mình phải hết sức cô đọng, súc tích. Tuy nhiên, quan trọng hơn là từ hoặc cụm từ đó phải mô tả được đặc tính sẵn có trong sản phẩm của bạn mà không một sản phẩm nào khác sở hữu được.
Bạn không cần phải là thiên tài ngôn ngữ thì mới tìm được một từ ngữ đắt giá. Trên thị trường nước xốt dùng cho món mì Ý, hãng Prego đã đối đầu với kẻ đi tiên phong là Ragu. Và Prego đã chiếm được thị phần đáng kể nhờ một ý tưởng vay mượn từ Heinz. Họ chọn cho sản phẩm của mình từ "thicker" (đậm đặc hơn).
Những từ đại diện hiệu quả nhất là những từ ngữ đơn giản nhất và hướng vào lợi ích của khách hàng. Cho dù sản phẩm hay dịch vụ có phức tạp đến mức độ nào, cho dù nhu cầu của thị trường có phức tạp đến đâu, tốt nhất bạn hãy luôn tập trung vào chỉ một đặc tính hoặc lợi ích nổi bật nhất mà sản phẩm mang lại, và thể hiện đặc tính đó bằng một từ hoặc cụm từ cô đọng.
Ngoài ra, bạn cũng nên quan tâm đến hiệu ứng halo(1). Nếu một sản phẩm đã thiết lập được niềm tin vững chắc về lợi ích đối với khách hàng thì chắc chắn khách hàng sẽ tiếp tục tin rằng sản phẩm đó còn đem lại nhiều lợi ích khác nữa. Món nước xốt mì Ý "đậm đặc hơn" rất có thể có chất lượng, có dinh dưỡng, có hương vị thơm ngon, v.v. Hoặc một chiếc xe "an toàn hơn" cũng hàm ý rằng chiếc xe đó có thiết kế đẹp hơn và kỹ thuật tốt hơn.
Cho dù đó có phải là kết quả của một chương trình được tính toán và cân nhắc cẩn trọng hay không thì hầu hết các công ty và thương hiệu thành công là những công ty và thương hiệu đã gán được một đặc tính của sản phẩm hay dịch vụ thể hiện dưới dạng một từ ngữ hoặc cụm từ vào tâm trí khách hàng. Bạn hãy xem một vài ví dụ điển hình:
Crest... Cavities (ngừa sâu răng)
Mercedes... Engineering (thiết kế kỹ thuật)
BMW... Driving (truyền động)
Volvo... Safety (an toàn)
Domino's... Home Delivery (giao hàng tận nhà)
Pepsi-Cola... Youth (giới trẻ)
Nordstrom... Service (dịch vụ)
Những từ hoặc cụm từ trên thể hiện sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ, mỗi từ ngữ đều liên quan đến một đặc tính cụ thể nào đó của sản phẩm hay dịch vụ như liên quan đến lợi ích (ngăn ngừa sâu răng), liên quan đến dịch vụ (giao hàng tận nhà), liên quan đến khách hàng (giới trẻ), ...
Mặc dù chúng ta luôn tìm mọi cách để từ ngữ đại diện in sâu vào tâm trí khách hàng, nhưng chẳng có điều gì là vĩnh cửu. Sẽ đến lúc các công ty phải thay đổi từ hoặc cụm từ vốn đã gắn liền với sản phẩm hay dịch vụ của mình. Tuy nhiên, việc thay đổi này không phải dễ dàng. Lịch sử gần đây của Lotus Development Corporation đã minh chứng cho thực chất của vấn đề này.
Trong một vài năm, Lotus đã đưa được từ "spreadsheet" (bảng tính) vào tâm trí của khách hàng. Cái tên Lotus được người tiêu dùng xem như đồng nhất với 1-2-3 và spreadsheet. Thế nhưng, sức cạnh tranh của thị trường này ngày càng trở nên gay gắt, do vậy khả năng phát triển thêm nữa đã trở nên hạn chế. Vậy Lotus làm cách nào để  phát triển mạnh hơn và vượt ra khỏi ngành kinh doanh chỉ có mỗi một sản phẩm này?
Câu trả lời thông thường sẽ là mở rộng hoạt động về tất cả các hướng, giống như IBM đã làm. Trên thực tế, Lotus cũng đã mở rộng danh mục sản phẩm của mình, bằng việc mua phần mềm xử lý văn bản Ami Pro và tung ra thị trường một số phần mềm ứng dụng mới. Tuy nhiên, sau đó Lotus đã tái cơ cấu để chỉ tập trung vào việc phát triển "phần mềm nhóm - groupware"(1) - phần mềm dành cho máy tính cá nhân nối mạng.
Lotus là công ty phần mềm đầu tiên phát triển thành công sản phẩm phần mềm nhóm và công ty này đã sở hữu được từ thứ hai trong tâm trí khách hàng, từ "groupware". Lotus đã thu hẹp diện tập trung vào một điểm. Thành công tất nhiên sẽ không đến trong một sớm một chiều, nhưng cuối cùng Lotus đã có được vị thế lâu dài và vững vàng trong thị trường phần mềm. Từ "groupware" đã mang lại cho Lotus những gì mà từ "overnight" mang lại cho Federal Express, và "safety" cho Volvo.
Bạn không được sử dụng từ đại diện của người khác. Điều giúp cho chiến dịch của Lotus trở nên khả thi là từ "groupware" chưa bị một công ty nào khai thác trước đó. Hơn nữa, Lotus ra đời trong thời điểm nhu cầu sử dụng máy tính nối mạng ngày càng tăng cao. Nhiều công ty bắt đầu nhận ra lợi ích của việc tạo cho sản phẩm hay dịch vụ của mình một đặc tính duy nhất, cô đọng trong một cụm từ duy nhất, thế nhưng có thể do quá lơ đễnh họ đã để vuột mất vai trò người đầu tiên sở hữu được từ hay cụm từ nào đó.
Trong marketing, không nên bỏ cụm từ gắn với sản phẩm của mình để giành lấy cụm từ đã bị công ty khác sử dụng từ trước. Đó là trường hợp của Atari, công ty sở hữu cụm từ "video game" (trò chơi điện tử). Năm 1982, Atari chọn lựa một hướng đi mới. Họ muốn từ "Atari" sẽ là thương hiệu gắn với "máy tính", chứ không phải "trò chơi điện tử" nữa. Tổng Giám đốc (CEO) James Morgan của Atari tuyên bố: "Sức mạnh của cái tên Atari cũng có thể là điểm yếu. Từ Atari đã bị đồng nhất với "video game". Atari phải định vị lại hình ảnh của mình và mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang các sản phẩm điện tử tiêu dùng". Không may cho chiến dịch của ông Morgan, một loạt công ty khác, trong đó có Apple và IBM, đã sở hữu từ "máy tính" mà Atari muốn theo đuổi. Chiến lược đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của Atari đã trở thành thảm họa. Nhưng điều trớ trêu hơn cả là một công ty khác, xuất hiện năm 1986, đã cuỗm đi cái từ "video game" mà Atari bỏ rơi. Công ty ấy là Nintendo.
Bản chất của marketing là thu hẹp diện tập trung. Bạn sẽ trở nên mạnh hơn khi giới hạn quy mô các hoạt động. Bạn không thể đại diện cho một thứ gì cụ thể nếu theo đuổi tất cả mọi thứ.
Một số công ty chấp nhận thu hẹp diện tập trung và cố gắng xây dựng chiến dịch này theo những cách... tự chuốc lấy thất bại: "Chúng tôi sẽ tập trung vào mục tiêu chất lượng. Chúng tôi sẽ không nhằm vào mục tiêu thấp kém là giá cả". Vấn đề là khách hàng sẽ không tin bạn đâu, trừ phi bạn chỉ kinh doanh các sản phẩm giá cao mà thôi (giống như cách mà Mercedes-Benz hay BMW đã làm).
General Motors cố gắng bán hàng có chất lượng cao ở mọi mức giá. "Putting quality on the road" (Đặt chất lượng trên đường trường) là khẩu hiệu gần đây nhất của công ty này. Mọi sản phẩm GM đều có dòng chữ "Mark of Exellence" (Chất lượng xuất sắc). Bạn hãy đoán xem Ford làm gì? Họ cũng thực hiện tương tự như vậy trong mẫu quảng cáo của mình: "Quality is Job 1" (Chất lượng là hàng đầu). Còn Lee Iacocca, giám đốc điều hành của Chrysler tuyên bố: "We don't want to be the biggest, we just want to be the best" (Chúng tôi không muốn làm người lớn mạnh nhất, chúng tôi chỉ muốn làm người giỏi nhất). Liệu có ai thật sự tin rằng Iacocca không muốn công ty mình trở nên lớn mạnh nhất hay không?
Bạn không thể thu hẹp diện tập trung vào mục tiêu chất lượng hay bất kỳ mục tiêu nào khác mà lại không khiến mọi người nghĩ đến một quan điểm trái ngược. Tương tự như thế, bạn cũng không thể tự nhận mình là một chính trị gia trung thực, vì chẳng ai chịu nhận mình ở vị trí đối lập với bạn (mặc dù có rất nhiều người là như vậy). Tuy nhiên, bạn có thể tự nhận mình là người ủng hộ giới kinh doanh, hoặc ủng hộ người lao động; như vậy bạn có thể được chấp nhận ngay lập tức, bởi vì cả hai phía đều có người ủng hộ cả.
Khi dồn sức vào phát triển một đặc tính nào đó của sản phẩm, hãy chuẩn bị tinh thần sẵn sàng tránh né các luật sư. Họ muốn đóng dấu trademark (nhãn hiệu đã đăng ký) lên tất cả những gì bạn công bố. Bí quyết để tháo gỡ việc này là làm cho những người khác cũng cần đến từ đại diện mà bạn đang sở hữu. [Để làm người đi đầu, bạn cần có những người theo sau]. Lotus được lợi nếu sau họ có những công ty khác cũng lao vào lĩnh vực phát triển phần mềm nhóm. Điều đó sẽ làm cho sản phẩm này càng quan trọng hơn, và mọi người sẽ càng ấn tượng hơn về sự đi đầu của Lotus.
Một khi đã thiết lập được từ đại diện riêng gắn với sản phẩm của mình, bạn phải nỗ lực bảo vệ nó. Trường hợp BMW là một minh họa điển hình cho điều này. Trong nhiều năm liền, BMW đã là một "the ultimate driving machine" (cỗ máy lái xe thượng hạng). Sau đó, công ty này bắt đầu mở rộng dòng sản phẩm để chạy đua cùng Mercedes-Benz với sản phẩm xe sedan rộng, serie 700. Vấn đề là làm cách nào mà một phòng khách đặt trên 4 bánh xe lại có thể là "cỗ máy lái xe" thượng hạng được? Bạn không chỉ vừa mất cảm giác về mặt đường, mà lại còn dễ đâm đầu vào các cột điện cao thế. Hậu quả là BMW bắt đầu tụt dốc. Tuy nhiên thật may là gần đây họ đã cho ra đời một loại BMW nhỏ mới và đang nhấn mạnh trở lại vào thuộc tính "driving". BMW đã lấy lại được nét đặc trưng của mình thể hiện qua từ "driving".
Sưu tầm (Sách 22 Quy luật bất biến trong Marketing)
Quy luật nhận thức
Marketing không phải là cuộc chiến về sản phẩm mà là cuộc chiến về nhận thức.
Nhiều người quan niệm rằng marketing là cuộc đọ sức giữa các sản phẩm, và theo thời gian, sản phẩm thắng thế là sản phẩm tốt nhất. Với suy nghĩ này, những người làm marketing thường chỉ nghĩ đến việc "nghiên cứu" và "thu thập dữ liệu thực tế".
Họ phân tích tình hình để tin chắc rằng mình nhận định đúng. Sau đó, họ tự tin giương cờ tiến vào chiến trường marketing, với niềm tin rằng mình cung cấp sản phẩm tốt nhất, và sản phẩm tốt nhất này sẽ giành chiến thắng.
Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Không có yếu tố khách quan nào ở đây cả. Không có dữ liệu thực tế nào cả. Cũng không có sản phẩm nào là sản phẩm tốt nhất cả! Tất cả những gì tồn tại trong thế giới marketing chỉ là nhận thức - cái tồn tại trong ý thức khách hàng tiềm năng. Nhận thức của khách hàng mới chính là thực tế và quan trọng nhất. Tất cả những cái khác đều là ảo tưởng.
Mọi chân lý đều mang tính tương đối, tùy thuộc vào nhận thức của từng cá nhân. Khi bạn nói: "Tôi đúng, người kia sai" thực ra là bạn đang khẳng định nhận thức của bạn. Trong thực tế, có nhiều người luôn tự cho rằng họ có nhận thức đúng đắn hơn những người khác. Họ có cảm giác rằng mình không thể sai. Nhận thức của họ chính xác hơn của người đồng nghiệp, của hàng xóm hay của bạn bè người thân. Họ lầm lẫn giữa chân lý và nhận thức cá nhân. Với họ, hai khái niệm này dường như không có sự khác biệt nào. Nhưng việc phân biệt hai khái niệm thật ra cũng không phải dễ dàng. Và để đương đầu với thực tế đáng sợ là mình trở thành một cá thể cô đơn trong vũ trụ, con người bắt đầu phản chiếu cái tôi cá nhân của mình ra thế giới bên ngoài. Họ "sống" trong thế giới sách, phim ảnh, truyền hình, báo chí. Họ "thuộc về" những câu lạc bộ, tổ chức, đoàn thể, thể chế. Cái thế giới bên ngoài này dường như lại thật hơn chính cái thế giới tồn tại thật sự trong nhận thức của họ. Thế nhưng thực tế duy nhất mà bạn có thể tin tưởng một cách chắc chắn lại chính là nhận thức, là quan niệm riêng của bạn. Nếu vũ trụ tồn tại, nó tồn tại trong nhận thức của bạn. Đó là một thực tế mà các chương trình marketing phải đối diện. Marketing chính là nghệ thuật xử lý những quan niệm, những nhận thức đó.
Nhiều sai lầm trong marketing xuất phát từ ảo tưởng rằng chúng ta đang đua tranh về chất lượng sản phẩm và cuộc đua đó gắn chặt với thực tế. Tất cả những nguyên tắc marketing mà cuốn sách này nêu ra lại xuất phát từ quan điểm hoàn toàn trái ngược.
Điều mà một số người làm marketing xem là "quy luật tự nhiên" của marketing thì lại dựa trên giả thuyết không hoàn toàn đúng rằng chất lượng sản phẩm là mấu chốt của chiến lược marketing, và rằng việc bạn thắng hoặc thua hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm. Đó chính là lý do tại sao những hoạt động marketing sản phẩm, được triển khai một cách tự nhiên và hợp lô-gíc, nhưng lại không đạt hiệu quả như mong đợi.
Chỉ có thông qua việc nghiên cứu cơ chế hình thành nhận thức khách hàng và tập trung tất cả các chương trình marketing vào những nhận thức ấy, thì bạn mới có thể chiến thắng được những hình thức marketing theo lối mòn trước đây.
Người làm marketing chú ý nhiều đến dữ liệu thực tế bởi họ tin vào thực tế khách quan. Hơn nữa, người làm marketing thường luôn cho rằng mình đúng. Nếu đã nghĩ "phải có sản phẩm tốt nhất thì mới chiến thắng trong cuộc chiến marketing", thì bạn cũng rất dễ dàng tin rằng mình đã có trong tay sản phẩm tốt nhất. Ở đây, điều cần làm là hãy thay đổi quan điểm của bạn.
Việc thay đổi nhận thức của khách hàng lại là một vấn đề khác. Sau khi có chút ít kinh nghiệm sử dụng một sản phẩm nhất định, khách hàng khẳng định ngay rằng họ luôn đúng. Nhận thức tồn tại trong tâm trí họ thường được diễn giải như chân lý phổ quát.
Bạn hãy xem xét tình huống sau để nhận thấy sức mạnh của nhận thức mà khách hàng áp đặt cho cùng một chủng loại sản phẩm.
Ở thị trường Mỹ, ba thương hiệu xe hơi Nhật Bản bán chạy nhất là Honda, Toyota và Nissan. Nhiều người làm marketing cho rằng cuộc cạnh tranh giữa ba thương hiệu này dựa trên các tiêu chí chất lượng, kiểu dáng, công suất và giá cả. Nhưng thực tế không như vậy. Tiêu chí quyết định thương hiệu nào sẽ thắng thế phụ thuộc vào việc mọi người nghĩ như thế nào về Honda, Toyota và Nissan. Rõ ràng, marketing là cuộc chiến về nhận thức.
Các nhà sản xuất xe hơi Nhật bán ra thị trường Mỹ cùng loại xe mà họ bán ở Nhật. Nếu marketing quả thật là cuộc chiến về sản phẩm, bạn ắt phải nghĩ rằng ở cả hai thị trường thứ tự về doanh thu của các hãng sẽ như nhau. Cùng chất lượng, cùng kiểu dáng, cùng công suất, và giá cả tương đương sẽ cho doanh thu tương đương nhau - ở Nhật cũng như ở Mỹ. Nhưng ở Nhật, Honda không phải là công ty hàng đầu về xe hơi. Tại đây, Honda chỉ giữ vị trí thứ ba, sau Toyota và Nissan. Doanh số của Honda chỉ bằng 1/4 doanh số của Toyota.
Như vậy, có điều gì khác biệt giữa Honda ở Nhật và Honda ở Mỹ? Đó chính là: sản phẩm giống nhau, nhưng nhận thức của khách hàng trên hai thị trường này lại khác nhau. Nếu bạn khoe với bạn bè mình ở New York rằng bạn vừa mua một chiếc Honda, họ sẽ hỏi bạn: "Cậu mua xe hơi gì? Civic? Accord? Prelude?". Còn nếu bạn kể với bạn bè mình ở Tokyo rằng bạn đã mua một chiếc Honda, họ sẽ hỏi bạn: "Cậu mua xe máy gì?" Ở Nhật, Honda được khách hàng biết đến như một nhà sản xuất xe máy, và có vẻ như không ai muốn mua xe hơi do một hãng chuyên về xe máy sản xuất.
Tiếp theo, bạn hãy xem xét tình huống ngược lại: Theo bạn, liệu Harley-Davidson có thành công không nếu họ sản xuất xe hơi hiệu Harley-Davidson? Có thể bạn sẽ cho rằng điều đó tùy thuộc vào sản phẩm mà họ cung cấp - vào chất lượng, kiểu dáng, công suất, giá cả. Thậm chí có khi bạn còn tin rằng uy tín của Harley-Davidson sẽ là một thứ giá trị gia tăng. Nhưng chúng tôi không nghĩ vậy. Nhận thức của khách hàng về Harley-Davidson - "đây là một công ty chuyên sản xuất mô tô" - sẽ dìm chết chiếc xe hơi hiệu Harley-Davidson, bất kể chiếc xe hơi đó tốt đến mức nào.
Tại sao xà phòng của Campbell là sản phẩm hàng đầu ở thị trường Mỹ mà chẳng được chú ý ở Anh? Tại sao xúp Heinz thành công ở Anh nhưng lại thất bại thảm hại ở Mỹ? Vì marketing chính là nghệ thuật xử lý nhận thức của khách hàng.
Trong lĩnh vực giải khát, nhiều người cho rằng marketing là cuộc chiến về hương vị. Vậy thì, New Coke có vị ngon nhất (hãng Coca-Cola đã tiến hành 200.000 cuộc thử nghiệm và chứng minh được rằng New Coke uống ngon hơn Pepsi-Cola, và Pepsi ngon hơn Coca-Cola Classic - công thức đầu tiên của Coca-Cola, ngày nay được gọi là Coca-Cola cổ điển). Nhưng ai đã chiến thắng trong cuộc chiến marketing này? Thức uống mà các kết quả nghiên cứu đã chứng minh là ngon nhất - New Coke - chỉ đứng ở vị trí thứ ba. Trong khi đó, thức uống có hương vị kém nhất - tức Coca-Cola Classic - lại dẫn đầu.
Bạn sẽ tin điều gì bạn muốn tin. Bạn sẽ uống thứ gì bạn muốn uống. Marketing sản phẩm thức uống cũng là cuộc chiến về quan niệm chứ không phải cuộc đọ sức về hương vị, chất lượng. Điều khiến cho cuộc chiến trở nên gian nan là khách hàng lại thường đưa ra các quyết định mua hàng dựa theo nhận thức của người khác về thực tế. Đây gọi là nguyên tắc "tất cả mọi người đều bảo như thế".
Ai cũng bảo rằng xe hơi Nhật tốt hơn xe hơi Mỹ. Thế là người ta quyết định mua dựa trên "thực tế" là ai cũng biết rằng Nhật Bản sản xuất xe hơi chất lượng tốt hơn. Hầu hết khách hàng không có kinh nghiệm nhiều về sản phẩm, thậm chí kinh nghiệm của họ thường xuyên bị thay đổi cho phù hợp với nhận thức của họ. Nếu bạn mua phải một chiếc xe hơi Nhật kém chất lượng thì đấy là vì bạn kém may mắn, bởi vì ai cũng bảo là xe Nhật tốt. Ngược lại, nếu bạn mua một chiếc xe hơi tốt của Mỹ thì: "Bạn may mắn đấy!", vì ai cũng bảo là xe Mỹ chất lượng không bằng.
Mọi người đều đã biết câu chuyện xảy ra với xe hơi Audi. Ngày 23 tháng 11 năm 1986, kênh truyền hình CBS phát một chương trình dài 60 phút mang tên "Ngoài tầm kiểm soát". Chương trình này khuyến cáo mọi người lưu ý một loạt khiếu nại về chuyện Audi "tăng tốc ngoài ý muốn". Ngay sau đó, lượng xe Audi tiêu thụ ở Mỹ sụt giảm theo đà rơi tự do - từ 60.000 chiếc năm 1986 xuống còn 12.000 chiếc năm 1991. Nhưng thật ra cá nhân bạn đã bao giờ gặp trục trặc "tăng tốc ngoài ý muốn" khi đi xe Audi chưa? Chưa chắc! Và tất cả các chuyên gia thử xe này đều đã không tán đồng với khiếu nại đó. Thế nhưng cái quan niệm kia thì vẫn tồn tại dai dẳng như một lời thách thức khó chịu cho các nhà lãnh đạo của hãng Audi. Sau đó, Audi đã chạy quảng cáo so sánh sản phẩm xe hơi của họ với các dòng xe tương tự của Mercedes-Benz và BMW. Và theo mẫu quảng cáo này, các chuyên gia xe hơi của Đức xếp Audi trên cả Mercedes và BMW.
Bạn có tin điều này không? Có lẽ là không. Liệu họ nói có đúng chăng? Nhưng nếu đúng thì cũng không có vấn đề gì xảy ra. Một lần nữa câu chuyện này lại minh chứng cho quy luật Nhận thức: marketing không phải là cuộc chiến cạnh tranh về chất lượng sản phẩm mà là cuộc đọ sức về nhận thức của khách hàng.
Sưu tầm
Xin giới thiệu với quý Thầy cô Phần mềm LectureMaker 2.0 của hãng Daulsoft - Hàn Quốc. Đây là phần mềm tạo bài giảng điện tử, trực quan, thân thiện và dễ dùng.


LectureMaker là phần mềm khá dễ dùng, giao diện thân thiện và có cấu trúc gần giống chương trình PowerPoint của hãng Microsoft. Bên cạnh đó, LectureMaker có một số điểm mạnh như chèn được nhiều định dạng file (PowerPoint, Flash, PDF, website, video, hình ảnh...), xuất ra nhiều định dạng (exe, web, gói SCORM, ...), có tính năng tương tác cao, ...

Bài hướng dẫn được thực hiện trên phần mềm LectureMaker (phiên bản dùng thử), kết hợp với một số file PowerPoint và Flash. Đi kèm trong bài hướng dẫn là các file thực hành được sắp xếp từ dễ đến khó để Thầy Cô và các bạn làm quen dần với các thao tác trong LectureMaker.

Theo dự đoán của CENTEA, từ thời điểm này đến vài năm tới, các chương trình tạo bài giảng điện tử đúng chuẩn quốc tế sẽ dần thay thế chương trình PowerPoint trong việc soạn các bài giảng tại Việt Nam.

Bạn có sử dụng Key sau:
Key : k3y :H4F8B-QWVKF-IYPWE-V5PUL-IAI5S
Link Down 1
Link Down 2

Tài liệu hướng dẫn
Quy luật ghi nhớ
Được khách hàng nhớ đến đầu tiên sẽ hiệu quả hơn là xuất hiện đầu tiên trên thị trường.
Chiếc máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới là MITS Altair 8800. Và theo quy luật Tiên phong thì MITS Altair 8800 sẽ là thương hiệu máy tính cá nhân hàng đầu. Nhưng thật đáng tiếc, sản phẩm này hiện không còn hiện diện trên thị trường nữa.
Du Mont là người chế tạo ra chiếc tivi đầu tiên. Duryea giới thiệu chiếc xe hơi đầu tiên. Hurley sáng chế ra chiếc máy giặt đầu tiên. Nhưng tất cả đều đã chìm vào quên lãng.
Phải chăng quy luật Tiên phong có gì sai? Không! Quy luật này vẫn đúng, nhưng nó được điều chỉnh khác đi một chút bởi quy luật Ghi nhớ: Được khách hàng nhớ đến đầu tiên sẽ hiệu quả hơn là xuất hiện đầu tiên trên thị trường. Thực ra, diễn đạt như vậy vẫn chưa thể hiện được hết tầm quan trọng của việc "được nhớ đến đầu tiên". Được khách hàng nhớ đến đầu tiên trước các đối thủ cạnh tranh khác là tất cả đối với một thương hiệu. Việc xuất hiện sớm nhất trên thị trường chỉ quan trọng nếu điều đó cho phép thương hiệu của bạn được mọi người nhớ đến trước tiên.
IBM không phải là thương hiệu đầu tiên của thị trường máy tính lớn, Remington Rand với sản phẩm UNIVAC mới là hãng đầu tiên. Nhưng nhờ vào những nỗ lực marketing ở quy mô lớn, IBM đã được tâm trí khách hàng ghi nhớ trước tiên và sớm chiến thắng trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát thị trường máy tính.
Quy luật Ghi nhớ phát sinh từ quy luật Nhận thức. Nếu nói marketing là cuộc chiến về nhận thức, không phải cuộc chiến về chất lượng sản phẩm, thì phải nói rằng: Bạn cần giành được chỗ đứng trong tâm trí của khách hàng trước khi giành chỗ đứng trên thị trường.
Mỗi năm, có đến hàng ngàn người muốn thành lập công ty riêng nhưng đã vấp ngã bởi quy luật này. Bất cứ ai cũng cho rằng ý tưởng của mình sẽ mở ra một cuộc cách mạng đối với lĩnh vực nào đó. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra với một điều kiện tiên quyết: phải tìm cách để đưa được ý tưởng đó vào tâm trí của khách hàng tiềm năng.
Thông thường, tài chính luôn là giải pháp cho mọi vấn đề. Bạn cần phải có nguồn tài chính ổn định và tương đối để thiết kế và chế tạo sản phẩm, để xây dựng hệ thống dịch vụ, để tổ chức họp báo, tham dự các triển lãm thương mại, chạy quảng cáo và tiến hành những chiến dịch gửi thư quảng cáo trực tiếp,... Tuy nhiên, điều này lại làm nảy sinh quan niệm rằng giải pháp chung cho tất cả các vấn đề về marketing chỉ là TIỀN. Nhưng trong thực tế, đồng tiền bị chi tiêu lãng phí vào marketing nhiều hơn vào bất kỳ hoạt động nào khác của con người (tất nhiên ở đây không đề cập đến các hoạt động của chính phủ).
Bạn không thể thay đổi ý thức của con người một khi đã định hình. Nếu cố thay đổi thì cũng giống như bạn đang húc đầu vào kẻ thù đã cố thủ trong chiến lũy kiên cố, chẳng hạn như cuộc tấn công của Lữ đoàn Light vào Balaclava(1), một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử và tiếp sau đó là thất bại của tướng Pickett tại Gettysburg(1).
Wang là công ty đi đầu trong lĩnh vực sản xuất các thiết bị xử lý văn bản (word processor). Nhưng thế giới đã bỏ qua những chiếc máy của Wang và tiến tới sử dụng máy tính. Và Wang đã không thể thay đổi được tâm lý của khách hàng. Mặc dù sau đó đã bỏ ra hàng triệu đô la để marketing cho sản phẩm máy tính cá nhân và máy tính mini, Wang vẫn chỉ được nhìn nhận như một công ty chuyên sản xuất thiết bị xử lý văn bản.
Xerox là hãng đi đầu trên thị trường máy photocopy, sau đó họ đã cố chen chân vào lĩnh vực máy tính, nhưng rõ ràng Xerox đã không tạo được tiếng vang nào trong thị trường này.
Bạn muốn thay đổi một chữ gì đó trên màn hình máy tính ư? Chỉ cần đánh chữ khác đè lên hoặc đơn giản là nhấn phím Delete để xóa những chữ ấy đi. Bạn muốn thay đổi một điều gì đó trong tâm trí con người ư? Hãy quên ngay ý nghĩ này. Một khi tâm trí đã định hình điều gì thì khả năng thay đổi tâm trí là vô cùng khó khăn, thậm chí hầu như không thể. Trong lĩnh vực marketing, việc tìm mọi cách để thay đổi suy nghĩ của khách hàng là việc làm lãng phí nhiều công sức nhất. Và điều này đã giải thích một bí ẩn: Tại sao một quan niệm vững chắc như đinh đóng cột lại có thể xuất hiện gần như ngay lập tức trong ý thức con người? Hôm trước, bạn còn chưa bao giờ nghe nói đến một anh X. nào đó. Bỗng nhiên hôm sau anh ta trở nên nổi tiếng. Chuyện "nổi tiếng chỉ sau một đêm" không phải là hiện tượng hiếm gặp.
Nếu muốn gây ấn tượng mạnh với người nào, bạn không thể chậm trễ trong việc tạo cảm tình. Tâm trí của con người không vận hành theo cách thức như thế. Bạn phải mở đường vào tâm trí của con người một cách thật mạnh mẽ. Phải nhanh chóng mở đường thay vì chậm rãi tiến vào, bởi con người nói chung không muốn thay đổi suy nghĩ của mình. Khi mọi người đã nhìn nhận bạn theo một cách nào đó thì họ sẽ nhìn nhận như thế mãi. Họ có khuynh hướng lưu hình ảnh bạn vào tâm trí mình như một mẫu người cố định. Bạn sẽ không thể trở thành người khác trong suy nghĩ của họ được.
Một trong những bí ẩn của marketing là vai trò của đồng tiền. Đôi khi chỉ vài đô la cũng có thể tạo nên một phép màu lớn, và hàng triệu đô la có khi lại không thể cứu một công ty khỏi chết chìm. Đối với thị trường máy tính, Apple đã cất cánh bay cao chỉ nhờ có 91.000 đô la đầu tư ban đầu của Mike Markkula. Khó khăn của Apple trong việc giành chỗ đứng trong tâm trí của khách hàng được giải quyết một phần nhờ cái tên đơn giản và dễ nhớ so với những cái tên phức tạp, khó nhớ của các đối thủ cạnh tranh. Thời gian đầu, có năm công ty sản xuất máy tính cá nhân cùng ở vị trí chuẩn bị cất cánh, đó là Apple II, Commodore Pet, IMSAI 8080, MITS Altair 8800, và Radio Shack TRS-80. Theo bạn, tên nào trong số này là đơn giản nhất, dễ nhớ nhất?
 Quy luật chủng loại
Nếu bạn không thể trở thành người tiên phong trong một chủng loại sản phẩm nào đó, hãy chọn một sản phẩm mới mà bạn có thể trở thành người tiên phong.
Ai là người thứ ba một mình bay qua Đại Tây Dương? Nếu đã không biết người thứ hai một mình bay qua Đại Tây Dương là Bert Hinkler, thì bạn khó mà biết được tên người thứ ba. Đó chính là Amelia Earhart(1).
Nhưng Amelia nổi tiếng không phải là người thứ ba một mình lái máy bay vượt Đại Tây Dương, mà là người phụ nữ đầu tiên làm việc đó.
Sau khi Heineken gặt hái được thành công lớn, công ty Anheuser-Busch đã có thể đưa ra chiến lược mới: "Nhập khẩu bia". Nhưng họ đã không làm thế, mà nhấn mạnh rằng: "Nếu đã có thị trường cho bia nhập khẩu giá cao thì cũng có thể có thị trường cho bia nội địa giá cao". Và thế là họ bắt đầu xúc tiến tạo dựng thương hiệu Michelob, loại bia nội địa giá cao đầu tiên ở Mỹ.
Miller Lite là loại bia nhẹ được sản xuất đầu tiên ở Mỹ. Và một công ty chuyên nhập khẩu đã phải mất 5 năm để đi đến kết luận: "Nếu có thị trường cho bia nhẹ nội địa thì cũng có thể có thị trường cho bia nhẹ nhập khẩu". Kết quả là Amstel Light ra đời, sau đó nó đã trở thành thương hiệu bia nhẹ nhập khẩu bán chạy nhất ở Mỹ.
Nếu sản phẩm hay dịch vụ của công ty bạn không phải là thương hiệu đầu tiên đi vào tâm trí khách hàng, bạn đừng vội nản chí. Hãy kiên nhẫn tìm một mặt hàng hay sản phẩm khác, một lĩnh vực kinh doanh khác mà bạn có thể đi tiên phong. Việc này thật ra cũng không quá khó khăn như bạn nghĩ!
Sau khi IBM thành công vang dội trên thị trường máy tính, rất nhiều công ty cùng đổ xô vào lĩnh vực này: nào là Burroughs, Control Data, rồi General Electric, Honeywell, lại thêm NCR, RCA, Sperry. Cùng với IBM, tất cả tạo thành một bộ tám: "Bạch Tuyết và bảy chú lùn".
Chú lùn nào trong số đó đã cao dần lên và trở thành một công ty hùng mạnh khắp toàn cầu, với 126.000 nhân viên, đạt doanh thu 14 tỷ đô la mỗi năm, một công ty được mệnh danh là "hãng máy tính lớn thứ hai thế giới"? Không có chú nào cả. Công ty máy tính thành công nhất trong thập niên 70 và 80, sau IBM, là Digital Equipment Corporation (DEC). IBM đứng đầu trong lĩnh vực máy tính còn DEC đứng đầu lĩnh vực máy tính mini (minicomputer)(1).
Nhiều công ty máy tính khác đã trở nên thành công, giàu có và nổi tiếng nhờ tuân theo một quy luật rất đơn giản: Nếu không thể trở thành người tiên phong trong một chủng loại sản phẩm nào đó, hãy chọn một sản phẩm mới có thể giúp bạn trở thành người tiên phong.
Tandem là công ty đầu tiên ra đời dòng máy tính có tính năng chịu lỗi (fault-tolerant computer - FTC)(2), còn Stratus là thương hiệu đầu tiên của sản phẩm máy tính mini có tính năng chịu lỗi (fault-tolerant minicomputer).
Bản chất của những quy luật marketing không khó hiểu, thậm chí chúng còn rất đơn giản. Nhưng để vận dụng được những quy luật này lại là một vấn đề.
Cray Research vươn lên vị trí hàng đầu nhờ vào thương hiệu siêu máy tính (supercomputer)(1) đầu tiên. Khi nhận thấy tiềm năng của thị trường này, Convex nhanh chóng cho ra đời sản phẩm siêu máy tính mini đầu tiên (minisupercomputer). Cả hai thương hiệu này đều gặt hái được thành công nhất định.
Đôi khi bằng cách đi tiên phong ở một chủng loại sản phẩm mới, bạn có thể xoay chuyển tình thế từ một kẻ vô danh, không được xếp hạng trở thành người chiến thắng. Commodore là một nhà sản xuất máy tính gia đình chẳng mấy tên tuổi cho đến khi họ định vị Amiga là thương hiệu máy tính đa phương tiện (multimedia computer) đầu tiên.
Có nhiều cách khác nhau để trở thành người tiên phong. Dell bước chân vào thị trường máy tính đất chật người đông với tư cách là công ty đầu tiên bán máy tính qua điện thoại. Lear's không phải là tạp chí đầu tiên dành cho độc giả nữ, nhưng là tạp chí đầu tiên hướng vào đối tượng phụ nữ trưởng thành.
Mỗi khi bạn dự định cho ra đời một sản phẩm hay dịch vụ mới, câu hỏi đầu tiên bạn đặt ra không phải là: "Sản phẩm/dịch vụ mới này có gì tốt hơn của đối thủ cạnh tranh không?", mà phải là: "Sản phẩm/dịch vụ mới này đi tiên phong về điểm gì?". Hay nói cách khác, thương hiệu này sẽ bước chân đầu tiên ở lĩnh vực nào?
Điều này trái ngược hoàn toàn với tư duy marketing truyền thống là hướng vào thương hiệu và làm mọi cách để khách hàng yêu thích thương hiệu. Thế nhưng, ngay lúc này đây, bạn hãy tạm quên vấn đề thương hiệu mà hãy nghĩ đến sản phẩm. Khi nói về thương hiệu, hầu hết mọi khách hàng đều rất bảo thủ. Họ luôn tìm cách chứng minh thương hiệu mà họ yêu thích vượt trội hơn các thương hiệu khác. Tuy nhiên, ai cũng trở nên cởi mở, thoải mái khi nhắc đến các chủng loại sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm mới lạ, chứ không phải sản phẩm tốt hơn.
Khi trở thành người tiên phong trong một chủng loại sản phẩm mới, bạn hãy tập trung phát triển sản phẩm đó để tạo cho mình một vị thế vững chắc trên thị trường. Có nhiều cơ hội để bạn thực hiện điều này vì lúc đó bạn chưa có đối thủ cạnh tranh. Như DEC chẳng hạn, họ chỉ cần thuyết phục khách hàng nên mua "máy tính mini" một cách chung chung, chứ không cần phải khuyến dụ khách hàng mua "máy tính mini của DEC".

I. Quy luật tiên phong
Trở thành người dẫn đầu sẽ hiệu quả hơn trở thành người giỏi hơn.
Nhiều người tin vấn đề căn bản trong marketing là thuyết phục khách hàng tiềm năng rằng công ty bạn cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ tối ưu hơn các công ty khác. Điều này không hẳn là chính xác.
Nếu thị phần của bạn còn khiêm tốn, bạn đang phải cạnh tranh với những công ty đối thủ có quy mô lớn hơn cũng như khả năng tài chính mạnh hơn, thì chiến lược marketing bạn đưa ra có lẽ đã phạm sai lầm ngay từ đầu. Và bạn đã vi phạm quy luật marketing đầu tiên.
Vấn đề căn bản trong marketing là tạo ra những chủng loại sản phẩm mới mà công ty của bạn là người đi đầu. Đây chính là nội dung của quy luật Tiên phong: Trở thành người dẫn đầu sẽ hiệu quả hơn trở thành người giỏi hơn. Việc trở thành công ty hoặc sản phẩm, dịch vụ đầu tiên đi vào tâm trí khách hàng sẽ dễ hơn so với việc thuyết phục khách hàng rằng bạn cung cấp sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn người đi trước.
Để minh họa Quy luật Tiên phong, bạn hãy trả lời hai câu hỏi sau:
1. Ai là người đầu tiên một mình bay qua Đại Tây Dương? Bạn sẽ trả lời là Charles Lindbergh(1), đúng không?
2. Ai là người tiếp theo một mình bay qua Đại Tây Dương? Tôi tin là bạn không dễ tìm được câu trả lời.
Sau Charles Lindbergh, Bert Hinkler(1) là người thứ hai một mình bay qua Đại Tây Dương. Bert là một phi công tài năng hơn Charles - ông bay nhanh hơn, tiêu hao ít nhiên liệu hơn. Tuy nhiên, liệu có mấy ai nhớ đến cái tên Bert Hinkler?
Câu chuyện về Lindbergh cho thấy ưu thế vượt trội rõ ràng của người đi đầu. Dù vậy, nhiều công ty vẫn tiếp tục đi theo con đường như Bert Hinkler đã đi. Họ kiên nhẫn chờ đến khi thị trường đã định hình và phát triển rồi mới nhảy vào với một sản phẩm tốt hơn, thường là gắn liền với tên công ty. Trong môi trường cạnh tranh ngày nay, một sản phẩm ra đời với tinh thần "tôi cũng có", "tôi cũng thế" như vậy, lại được gắn với cái tên vốn được công ty đặt cho dòng sản phẩm chính của họ, sẽ có rất ít hy vọng trở thành một thương hiệu lớn, sinh lời.
Thương hiệu đi đầu trong bất cứ ngành hàng nào gần như luôn luôn là thương hiệu đầu tiên được khách hàng nhớ đến. Thương hiệu Hertz trong lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe, thương hiệu IBM trong lĩnh vực máy tính và thương hiệu Coca-Cola trong lĩnh vực giải khát.
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Heineken là thương hiệu bia nhập khẩu đầu tiên ghi danh trên đất Mỹ. Bốn thập niên sau, nếu bạn hỏi bất kỳ ai rằng loại bia nhập khẩu nào là ngon nhất? Câu trả lời luôn là: Heineken. Có tới 425 loại bia nhập khẩu được bán trên thị trường Mỹ. Chắc chắn trong số đó có loại bia uống ngon hơn Heineken, nhưng điều đó không thành vấn đề. Ngày nay, Heineken vẫn là một trong những thương hiệu bia nhập khẩu hàng đầu của Mỹ và là công ty sản xuất bia lớn thứ 4 trên toàn thế giới, sau InBev, SABMiller và Anheuser-Busch.
Loại bia nhẹ nội địa(1) đầu tiên là Miller Lite. Vậy loại bia nhẹ nào bán chạy nhất và có hương vị ngon nhất ở Mỹ ngày nay? Đó chính là loại bia đầu tiên được khách hàng ghi vào tâm trí.
Tuy nhiên, công bằng mà nói không phải mọi sản phẩm hay dịch vụ xuất hiện đầu tiên đều sẽ thành công. Xuất hiện đầu tiên nhưng phải đúng thời điểm. Có nhiều thương hiệu tuy ra đời đầu tiên nhưng khi đã quá muộn. Ví dụ, tờ USA Today là tờ báo quốc gia đầu tiên, nhưng tờ báo đã không thu được thành công như mong đợi. USA Today đã lỗ gần 800 triệu đô la và kể từ khi ra đời, chưa có năm nào tờ báo thu được lợi nhuận. Trong thời đại truyền hình và truyền thông hiện đại như ngày nay, sự xuất hiện của một tờ báo là quá muộn.
Một số ý tưởng tiên phong khác thì lại quá kém nên chẳng đi đến đâu cả. Frosty Paws, loại kem đầu tiên dành cho... chó, là một trong những ý tưởng loại này. Các chú chó thích ăn Frosty Paws thật, nhưng người chủ của chúng mới là người bỏ tiền mua thức ăn, và chẳng có người chủ nào nghĩ rằng chó của họ phải cần đến một loại kem riêng.
Quy luật Tiên phong có thể áp dụng cho mọi sản phẩm, thương hiệu, ngành hàng. Giả sử bạn không biết trường đại học nào ra đời đầu tiên ở Mỹ, bạn có thể phỏng đoán bằng cách thay cụm từ "ra đời đầu tiên" bằng cụm từ "hàng đầu". Vậy tên của trường đại học hàng đầu nước Mỹ là gì? Hầu như ai cũng sẽ nói đó là Harvard. Và quả thật Harvard là trường đại học đầu tiên của Mỹ. (Tiếp theo là trường nào nhỉ? Đó là trường William & Mary, nhưng ngôi trường này chắc cũng chỉ nổi tiếng hơn Bert Hinkler một chút mà thôi!)
Quy luật Tiên phong cũng áp dụng cho các tờ tạp chí. Đó là lý do tại sao mà Time lại đi trước Newsweek, People nhanh chân hơn Us, và Playboy vượt trội Penthouse. Hãy lấy TV Guide làm ví dụ điển hình. Vào những năm đầu thập niên 50, công ty xuất bản Curtis - lúc đó còn vững mạnh - đã nỗ lực tung ra thị trường một tờ tạp chí đăng tải lịch phát sóng truyền hình nhằm cạnh tranh với chú chim non TV Guide. Mặc dù TV Guide khởi đầu hết sức khiêm tốn, và dù cho công ty Curtis lúc đó cực kỳ mạnh, nhưng ấn phẩm của Curtis đã chẳng bao giờ phát triển được. Tờ TV Guide do nhanh chân hơn nên đã thắng thế trên thị trường.
Quy luật Tiên phong có thể áp dụng cho các sản phẩm tiêu dùng công nghệ cao. Jeep là thương hiệu đầu tiên trong dòng xe vượt địa hình, truyền động bốn bánh. Acura là thương hiệu tiên phong trong dòng xe Nhật sang trọng. IBM đi đầu trong dòng máy tính trung tâm (mainframe computer). Sun Microsystems nhanh chân nhất trong các thương hiệu máy trạm làm việc (workstation)(1). Xe tải nhẹ đầu tiên là do hãng Chrysler tung ra thị trường. Hewlett-Packard (HP) là công ty đầu tiên tung ra thị trường chiếc máy in lazer để bàn. Gillette là loại dao cạo râu an toàn có mặt đầu tiên trên thị trường. Tide là thương hiệu bột giặt đầu tiên. Hayes là chiếc modem máy tính đầu tiên. Và tất cả đều là những thương hiệu hàng đầu. Như vậy, chắc chắn bạn đã biết được đâu là bản chất thực sự của marketing: sản xuất ra những sản phẩm tốt hơn, hay trở thành người đầu tiên bước chân vào thị trường?
Một lý do khiến thương hiệu ra đời sớm nhất có xu hướng duy trì vị trí lãnh đạo là vì tên thương hiệu đã trở nên phổ biến. Tên của Xerox - máy photocopy đầu tiên dùng giấy trơn - đã trở thành tên chung cho tất cả các loại máy photocopy sử dụng giấy trơn. Khi đứng trước các máy in mang nhãn hiệu Ricoh, Sharp hay Kodak, mọi người đều hỏi: "Photo một bản Xerox thế nào đây nhỉ?". Người ta cũng sẽ nói "Kleenex" ngay cả khi chiếc hộp đựng khăn giấy kia ghi rõ nhãn hiệu là Scott. Người ta sẽ mời bạn uống một lon Coke trong khi thực ra họ chỉ có toàn Pepsi-Cola.
Liệu có bao nhiêu người hỏi mua "băng dính" thay vì hỏi mua "băng Scotch"(2)? Không mấy ai. Khi đã trở nên phổ biến, nhiều tên thương hiệu bắt đầu được sử dụng để chỉ cả dòng sản phẩm: Band-Aid (băng keo dùng trong y tế), Fiberglas (sợi thủy tinh), Formica (phoóc mi ca), Gore-Tex (sợi tổng hợp, không thấm nước), Jello (đồ ăn đóng gói, như bánh pudding, snack... các loại), Krazy Glue (keo dán, hồ dán), Q-tips (bông ngoáy tai), Saran Wrap (loại giấy gói mỏng bằng plastic, thường dùng để bọc thức ăn), Velcro (loại khóa dán, gồm một dải có gai nháp và một dải dính, khi ép lại sẽ dính chặt vào nhau)... chỉ là một số ví dụ điển hình. Một số công ty đã thành công lớn khi biến được tên thương hiệu trở thành tên mặt hàng hoặc ngành dịch vụ tương ứng, ví dụ: "FedEx bưu kiện này đến Coast".
Nếu muốn đưa thương hiệu đầu tiên của một chủng loại sản phẩm hoàn toàn mới ra thị trường, bạn hãy chọn cho thương hiệu đó một cái tên dễ trở nên phổ biến. Thương hiệu đầu tiên thường trở thành thương hiệu hàng đầu. Không chỉ thế, thứ tự doanh thu của các thương hiệu lại thường cũng chính là thứ tự xuất hiện các thương hiệu đó trên thị trường. Minh chứng rõ ràng nhất là sản phẩm thuốc ibuprofen(1). Advil xuất hiện trên thị trường đầu tiên, Nuprin thứ hai, Medipren thứ ba. Đó cũng chính là thứ tự doanh thu của họ hiện nay: Advil nắm giữ thị phần thuốc ibuprofen nhiều nhất; tiếp theo là Nuprin và Medipren. Thương hiệu vào thị trường thứ tư là Motrin IB. Mặc dù họ có công thức giảm đau rất hiệu quả, nhưng thị phần của Motrin không đáng kể. Khách hàng đã quen sử dụng cái tên Advil làm tên gọi chung chỉ loại thuốc ibuprofen. Hiếm khi người ta dùng từ "ibuprofen". Thậm chí đến bác sĩ cũng nói với bệnh nhân: "Mỗi ngày, uống hai viên Advil nhé!".
Bạn cũng thử xem xét trường hợp Tylenol - thương hiệu thuốc acetaminophen đầu tiên. Cho đến nay Tylenol đã vượt xa thương hiệu đứng thứ hai đến mức thật khó xác định ai là thương hiệu số hai.
Để thành công, các công ty cần phải sớm thâm nhập được vào tâm trí của khách hàng tiềm năng. Trong khi đó, các công ty lại thường thực hiện theo chiến lược làm ra sản phẩm tốt hơn. Chủ đề nóng hổi nhất trong lĩnh vực quản trị kinh doanh luôn là quản lý chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Được mệnh danh là "chiến lược cạnh tranh tối thượng", quản lý chất lượng sản phẩm/dịch vụ được định nghĩa là "quá trình so sánh và đánh giá sản phẩm/dịch vụ mà công ty bạn cung cấp so với sản phẩm/dịch vụ tốt nhất trong ngành". Đó là nhân tố căn bản trong một quá trình gọi là "quản lý chất lượng toàn diện". Đáng tiếc, việc quản lý chất lượng không mang lại hiệu quả đáng kể. Cho dù thực tế có như thế nào, thì nhiều người vẫn xem sản phẩm đầu tiên mà họ biết đến và đã quen thuộc là sản phẩm tốt nhất. Marketing là cuộc chiến về quan niệm, suy nghĩ, không phải là cuộc chiến về chất lượng.
Bạn hãy thử tiếp tục trả lời các câu hỏi sau:
Thương hiệu thuốc aspirin đầu tiên là gì? Thương hiệu thuốc acetaminophen đầu tiên là gì? Thương hiệu thuốc ibuprofen đầu tiên là gì? (Gợi ý cho bạn: Thay từ "đầu tiên" bằng từ "hàng đầu", bạn sẽ có câu trả lời cho cả ba câu hỏi này).
Neil Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Người thứ hai là ai?
Roger Bannister là người đầu tiên chạy hết một dặm chỉ trong vòng bốn phút. Người thứ hai là ai?
George Washington là tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vị tổng thống thứ hai là ai?
Thomas' là thương hiệu bánh xốp Anh đầu tiên. Thương hiệu thứ hai là gì?
Gatorade là loại đồ uống thể thao đầu tiên. Thương hiệu thứ hai là gì?
Nhưng nếu thương hiệu của bạn là thương hiệu thứ hai được tâm trí khách hàng ghi nhớ, liệu nó có bị chìm dần vào quên lãng không, như những Buzz Aldrin, John Landy, John Adams, một loại bánh xốp Anh vô danh nào đó, một loại đồ uống thể thao tầm thường nào đó? Mọi vấn đề luôn có ngoại lệ, trong trường hợp này cũng vậy. Bạn hãy vững tin vì còn có nhiều quy luật marketing khác nữa.
Lời giới thiệu 
 
Sự thành công của một thương hiệu phụ thuộc rất nhiều vào công tác marketing. Thế nhưng, hàng tỷ đô la đã và đang bị tiêu phí vào những chương trình marketing kém hiệu quả, bất kể rằng đó có thể là những chương trình được đầu tư vô vàn công sức và chi phí.
Một chương trình marketing hiệu quả không phải chỉ cần được lên kế hoạch đầy đủ, thực hiện đúng thời điểm và có nguồn hỗ trợ tài chính thuận lợi mà còn phải tuân theo những quy luật marketing phù hợp.
Cũng giống như tự nhiên luôn có luật của tự nhiên, marketing cũng có những quy luật của marketing. Bạn có thể chế tạo một chiếc máy bay thật đẹp, kiểu dáng hiện đại nhưng nó sẽ không cất cánh khỏi mặt đất nếu bạn không tuân theo những quy luật về khí động học, đặc biệt là luật trọng trường của trái đất. Bạn có thể xây dựng một kiệt tác kiến trúc trên những cồn cát, nhưng nếu bạn không chọn nơi khuất gió, tránh xa sóng biển thì công trình của bạn sẽ nhanh chóng bị phá tan bởi những cơn sóng biển và gió trời. Tương tự, kế hoạch marketing hoàn hảo của bạn có thể không đem lại kết quả như mong muốn bởi bạn không tuân theo một quy luật marketing nào đó. Đôi khi chỉ cần một sai lầm, một nước cờ thiếu chính xác, bạn đã để vuột mất nhiều cơ hội thành công, thậm chí cái giá phải trả là rất đắt.
Cuốn sách 22 Quy luật bất biến trong Marketing này sẽ hướng dẫn bạn cách tránh những sai lầm ngay từ giai đoạn đầu tiên lên kế hoạch marketing. Đây là những quy luật cơ bản có khả năng chi phối nhất định đến sự thành công cũng như thất bại trong công việc kinh doanh của bạn. Đây cũng là công trình tâm huyết của hai tác giả Al Ries và Jack Trout sau nhiều năm nghiên cứu và trải nghiệm thực tế kinh doanh. Những quy luật này mang giá trị thực tiễn cao, dễ nắm bắt và vận dụng. Chỉ cần bạn tiếp thu chúng với sự cởi mở, linh động và nhạy bén của riêng bạn, kết quả đạt được chắc chắn sẽ làm bạn ngạc nhiên.
Về hai tác giả Alries và Jack Trout
Al Ries
Al Ries là một trong những nhà chiến lược marketing nổi tiếng khắp thế giới. Ông là tác giả và đồng tác giả của nhiều quyển sách bán chạy nhất về marketing như: The 22 Immutable Laws of Marketing, The 22 Immutable Laws of Branding, Positioning: The Battle for Mind, Focus: The future of your company depends on it, Marketing Warfare, Bottom-up Marketing, The Origin of Brands, The Fall of Advertising and The Rise of PR,…
Sau khi tốt nghiệp Đại học Depaw, Al Ries làm việc ở phòng quảng cáo của tập đoàn General Electric. Sau đó ông thành lập đại lý quảng cáo của riêng mình ở New York mang tên Ries Cappiello Colwell. Đại lý này về sau phát triển thành Công ty Tư vấn Marketing, Trout & Ries.
Năm 1994, ông cùng con gái, Laura Ries, thành lập công ty Ries & Ries đặt trụ sở tại Atlanta, chuyên tư vấn chiến lược marketing. Laura Ries đã tốt nghiệp trường Đại học Northwestern và cùng cha điều hành công ty. Công ty Ries & Ries đã tư vấn cho nhiều công ty danh tiếng nằm trong danh sách Fortune 500 cũng như tham gia tổ chức hội thảo khắp nơi trên toàn thế giới.
Jack Trout
Jack  Trout là người có công lớn trong việc phát triển một phương pháp marketing quan trọng với tên gọi “positioning”. Với phương pháp này, ông đã thổi vào lĩnh vực marketing một luồng ý tưởng hoàn toàn mới mẻ trong những thập niên gần đây.
Jack Trout khởi đầu sự nghiệp của mình ở phòng quảng cáo công ty General Electric. Sau đó, ông trở thành giám đốc quảng cáo của một chi nhánh ở Unironyal và cùng Al Ries mở đại lý quảng cáo, rồi thành lập công ty tư vấn marketing. Hai người đã có gần 26 năm cộng tác cùng nhau trong việc điều hành cũng như xuất bản sách. Những cuốn sách ông và Al Ries viết đã gây được tiếng vang lớn như: The 22 Immutable Laws of Marketing, Marketing Warfare, Bottom-up Marketing, Horse Sense, …
Jack Trout hiện đang là chủ tịch Công ty Trout & Partner. Đây là một trong những công ty uy tín về marketing, có trụ sở chính ở Old Greenwich, Connecticut, Mỹ và văn phòng đại diện ở 13 quốc gia khác. Jack Trout điều hành một mạng lưới các chuyên gia toàn cầu để ứng dụng các khái niệm và phát triển những phương pháp marketing trên khắp thế giới. Công ty của ông đã từng làm việc cho các tập đoàn nổi tiếng như AT&T, IBM, Burger King, Merrill Lynch, Xerox, Merck, Lotus, Ericsson, Repsol, Hewlett-Packard, Procter & Gamble, Southwest Airlines,…

1. Khái niệm?


Thông thường, các dữ liệu dạng chữ, hình ảnh, âm thanh… sử dụng trên máy tính và được máy tính nhận biết đúng định dạng, được gọi chung là dữ liệu số. Quá trình chuyển các dạng dữ liệu truyền thống như các bản viết tay, bản in trên giấy, hình ảnh… sang chuẩn dữ liệu trên máy tính và được máy tính nhận biết được gọi là số hoá dữ liệu.

Như vậy, số hoá dữ liệu là hình thức chuyển đổi các dữ liệu truyền thống bên ngoài thành dạng dữ liệu số mà máy tính có thể hiểu được.
2. Tại sao phải số hóa dữ liệu?

Hãy tưởng tường rằng phải mất bao nhiêu giấy tờ và không gian để lưu trữ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại ngày một nhiều; hơn nữa việc bảo quản và phạm vi sử dụng bị hạn chế. Do vậy bắt buộc chúng ta phải nghĩ đến giải pháp số hóa dữ liệu. Việc số hóa dữ liệu sẽ giúp việc lưu trữ, truy xuất, chi sẻ, tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất.

3. Ưu điểm và Hạn chế

a. Ưu điểm

- Giúp việc lưu trữ, truy xuất, chia sẻ, tìm kiếm thông tin một cách dễ dàng

- Linh hoạt trong việc chuyển đổi sang các loại dữ liệu số khác nhau

- Giảm chi phí tối đa cho việc quản lý, không gian lưu trữ

- Có khả năng chỉnh sửa và tái sử dụng dữ liệu

b. Hạn chế

- Cần đầu tư ban đầu về công nghệ, cơ sở hạ tầng CNTT, máy móc hiện đại.

- Dữ liệu dễ bị sao chép và sửa đổi trái pháp luật.

-Việc triển khai sử dụng gặp nhiều khó khăn do phải thực hiện training đồng bộ và có hệ thống. Ngoài ra việc bảo mật dữ liệu cũng là một thách thức lớn.

GPS
Chắc hẳn một số người sẽ hỏi “Giải pháp số là gì?”, “Quy trình của giải pháp ra sao?”, “Lợi ích của giải pháp số đem lại là gì?”…


1. Khái niệm

Giải pháp số là những giải pháp được thực hiện dựa trên nhu cầu của con người liên quan đến việc áp dụng khả năng của máy tính (cả phần cứng, phần mềm và những ứng dụng).

Ví dụ:

- Giải pháp để quản lý nhân sự trong một Công ty đó là xây dựng một phần mềm quản lý nhân sự dựa trên nhưng yêu cầu và đặc thù của Công ty đó

- Để giảm thiểu chi phí cho việc lưu trữ một kho tài liệu giấy người ta phải tìm đến giải pháp số hoá tài liệu. Đó là việc kết hợp sử dụng phần cứng (Máy Scan, ổ đĩa cứng để lưu trữ) và phần mềm để chuyển đổi dữ liệu sang các định dạng số.

2. Phạm vi áp dụng của Giải pháp số

Ngày nay, giải pháp số được áp dụng cho hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực của cuộc sống. Đơn giản là đi đâu bạn cũng nhìn thấy máy tính và công nghệ của nó được áp dụng khắp nơi.

3. Nhà cung cấp giải pháp và người sử dụng giải pháp

Bạn đang viết Blog trên nền tảng của Yahoo 360 như vậy bạn là người sử dụng giải pháp còn Yahoo chính là nhà cung cấp giải pháp. Yahoo 360 được gọi là ứng dụng cho giải pháp viết nhật ký điện tử trực tuyến. Bạn cũng có thể sử dụng những ứng dụng, nền tảng (platform) khác để viết nhật ký điện tử như WordPress, Blogger, Opera…

Đôi khi chúng ta hay nhầm lẫn giữa ứng dụng và giải pháp, có những ứng dụng cũng chính là giải pháp nhưng một giải pháp có thể bao gồm nhiều ứng dụng để thực hiện nó, có thể nói quan hệ giữa giải pháp và ứng dụng là mối quan hệ một nhiều.

4. Lợi ích của Giải pháp số

Việc áp dụng Giải pháp số một cách đúng đắn sẽ giúp chúng ta giảm thiểu được thời gian, tiền bạc và cả nhân lực để thực hiện một công việc nào đó.

Ví dụ: Để tính lương cho 100 nhân viên nếu làm thủ công thì một kế toán phải mất cả tuần để thực hiện công việc này, còn nếu sử dụng phần mềm kế toán thì chỉ mất chưa tới 1 giờ đồng hồ
Trong bài này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu những phương tiện thanh tóan khác như : Séc, ngân phiếu...




*

Trình Tự Rút Tiền Từ Check (Cheque) Nước Ngoài Gửi Về



Như chúng ta thấy rằng, nếu giao dịch dựa hòan tòan vào tiền mặt sẽ gây ra nhiều trở ngại như: việc vận chuyển tiền bạc thiếu an tòan, mất thời gian và tốn kém công sức. Lấy ví dụ: khi thanh tóan hóa đơn điện, nếu số tiền quá lớn, bạn không thể bỏ tiền vào bao thư để gửi trả, chuyện thất lạc, mất mát có thể sẽ xảy ra. Nếu không có séc hay phiếu tiền hay một phương tiện có thể quy đổi ra tiền mặt, hoặc thẻ tín dụng, hẳn bạn phải mang tiền mặt đến trả tại quầy thu ngân của Công Ty Điện Lực hoặc đợi nhân viên đến thu. Điều này thật bất tiện nếu bạn ở xa hoặc có cuộc sống bận bịu hoặc không có tiền trả ngay khi người thu tiền của Công ty đến. Để giải quyết tình trạng này, ở nhiều nước tiên tiến từ lâu đã phát triển hệ thống chi trả bằng chi phiếu, ngân phiếu hay còn gọi là Séc (Check: từ Mỹ, Cheque: từ Anh), hay Money order.

I-Tìm hiểu về Sec:

1-Cấu tạo: Là tấm giấy hình chữ nhật được in bằng kỹ thuật chống giả có chu vi khỏang 3.5 x 7 inch. Phía góc trái trên có một số thông tin của chủ tài khỏan. Bên dưới là dòng chữ : Pay to the Order of: -Tên của người nhận: Chỉ trả cho người có tên trên dòng này thôi. Bên phải là số séc, ngày ký séc và chính xác số tiền phải trả. Con số này cũng phải được phát biểu bằng chữ. Phía dưới cùng là số tài khỏan và thông tin ngân hàng... Một séc chỉ có hiệu lực chi trả khi séc đó có chữ ký của người chủ tài khỏan.

2-Ứng dụng: Dùng làm công cụ có thể quy đổi ra tiền mặt để rút tiền trong tài khỏan ký gửi, trả cho một ai đó với một số tiền cụ thể nào đó theo nhu cầu.

Một người khi mở một tài khỏan với ngân hàng sẽ được cấp thẻ Ghi nợ (Debit Card) và một vào cuốn sổ séc gọi là séc cá nhân-personal check. Nếu là doanh nghiệp thì gọi là séc doanh nghiệp-business check. Chủ của séc hoặc người được ủy quyền có thể dùng nó để thanh tóan hóa đơn hoặc mua sắm hàng hóa, thường là mua bán trực tiếp.

Khi một cá nhân hay doanh nghiệp đồng ý nhận séc, họ sẽ ký gửi séc này tài khỏan của họ, và ngân hàng sẽ tiến hành việc rút tiền của séc đó. Trong một vài trường hợp, người được trả séc có thể đến một vài chi nhánh ngân hàng nơi họ mở tài khỏan để rút tiền mặt tại chổ. Ngòai ra, một số tiểu thương cũng nhận quy đổi séc ra tiền mặt, nhưng thường là séc của Công ty, cơ sở thương mại hoặc tổ chức tài chính uy tín.

3-Những khái niệm liên quan về séc:

1-Bounced Check-Unsufficient check: Séc lủng, séc không đủ tiền. Đó là trường hợp một séc bị từ chối quy đổi hoặc chi trả vì số tiền ghi trên séc lớn hơn số tiền có trong tài khỏan của người mang séc, hoặc tài khỏan séc đó đã đóng từ lâu nhưng họ vẫn sử dụng để chi trả. Lúc đó, cả người trả séc và người nhận séc sẽ bị phạt vì séc lủng.

2-Check Verification: Xác nhận tính hợp lệ và khả năng chi trả của séc. Thường các doanh nghiệp lớn nhận séc đều trang bị hệ thống này để tránh việc nhận các séc lủng, séc ma.

3-Counterfeit Check: Séc giả, séc ma. Séc giả bao gồm giả mạo chữ ký của chủ séc hoặc séc được làm giả mạo hòan tòan.

4-Cancelled check: Séc hủy bỏ. Séc này đã được rút tiền và không còn giá trị thanh tóan. Dùng làm bằng chứng cho việc đã trả tiền rồi.

5-Traveler's checks: Séc du lịch. Séc này được phát hành bởi các tổ chức tài chính như nhà băng. Séc có giá trị tiền mặt bằng mệnh giá tiền ghi trên séc. Séc được bảo vệ nếu bị mất hoặc bị đánh cắp. Séc du lịch tiện lợi khi đi du lịch ra nước ngòai nơi mà thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng chưa được chấp nhận rộng rãi. Khi quy đổi ra tiền mặt, người mang séc này sẽ bị tính một khỏan tiền hoa hồng hoặc lệ phí quy đổi nhỏ mặc dù ngân hàng nơi cấp séc này đã miễn lệ phí.

6-Cashier Check: Là séc có giá trị như tiền mặt và không thể bị lủng vì người mua séc này đã trả số tiền bằng mệnh giá ghi trên séc và nhà băng phải chịu trách nhiệm thanh tóan. Người mua phải trả một lệ phí nhỏ khi mua séc này.

7-Certified Check/Bank check: Là séc mà nhà băng hòan tòan bảo đảm chi trả.

8-Blank Check: Séc để trống chưa ghi tiền nhưng đã có chữ ký của chủ séc. Thông thường chủ séc phải ghi rõ số tiền trả, trong trường hợp nhầm lẫn, những séc như vậy rất nguy hiểm. Bởi vì ai đó nhận được séc này có thể viết lên đó bao nhiêu cũng được và có thể rút tiền hợp pháp.

Trong các lại séc kể trên: Cashier's check, traveler's Check và Certified check có thể được chấp nhận bởi một số doanh nghiệp mua bán hàng qua mạng. Séc cá nhân thường không được nhận rộng rãi cả trong giao dịch trực tiếp cũng như trực tuyến.

II-Phiếu tiền-ngân phiếu: Money Order.

Ngòai séc, money order cũng là một phương tiện quy đổi tiền mặt dùng để trả hóa đơn hoặc thanh tóan mua bán.

Money Order

Money Order hay phiếu tiền là một dạng thanh tóan thay thế séc để gửi tiền mặt qua đường bưu điện. Các tổ chức tài chính, bưu điện, cửa hàng thực phẩm, nhà băng đều có thể bán phiếu tiền. Khác với séc cá nhân, người mua phiếu tiền không cần phải có tài khỏan ngân hàng mà có thể sử dụng tiền mặt để mua phiếu tiền theo số tiền giới hạn. Phiếu tiền được xem là phương tiện chi trả an tòan cho người bán hàng không biết người mua là ai. Bởi vì phiếu tiền luôn được bảo đảm chi trả theo giá trị ghi trên phiếu, ngày nay, càng nhiều người bán hàng trên Internet thích nhận lọai phương tiện thanh tóan này.

Có thể kể ra đây 2 lọai phiếu tiền được ưa chuộng là:

1-Postal Money Order: Phiếu tiền này do bưu điện phát hành.

2-Bank Money Order: Phiều tiền này do nhà băng phát hành.

III-Phương thức thanh tóan hiện đại-Thanh tóan trực tuyến-Online Bill Payment.

Với kỹ thuật Internet phát triển, để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trả tiền, một số công ty đã khai thác khả năng thanh tóan trực tuyến gọi là: Online Bill Payment. Hiện tại và trong tương lai gần, việc dán tem và bỏ séc vào bao thư để gửi trả tiền hóa đơn sẽ không còn phổ biến.

Sức mạnh của Internet và thanh tóan trực tuyến quá rõ ràng. Chẳng phải rảo chân khắp siêu thị máy tính, chỉ một vài thao tác chiếc máy bạn cần mua sẽ được gửi thẳng về nhà bạn trong vài ngày.

Không cần đến ngân hàng, việc quản lý tài khỏan của bạn chỉ cần một vài chữ gõ từ bàn phím và một cái bấm chuột...

Tác Giả: Trương Hữu Đức
vnpaypal
"Này anh bạn, chú ý này. Nghe và nhớ giữ bí mật nhé. Tôi có một người bạn ở nước ngoài rất muốn về đây chơi. Anh ta rất giàu nhưng lại gặp khó khăn trong việc vượt qua một loạt các bước thủ tục phức tạp. Chính vì vậy, tôi hy vọng rằng bạn có thể đưa trước cho tôi một vài chục đô la để chúng tôi có thể thúc đẩy nhanh quá trình. Bạn không phải lo đâu. Một khi nào bạn tôi về được đây, anh ta sẽ trả bạn gấp 100 lần số tiền bạn đã ứng trước. Bạn nghĩ thế nào?"


Nếu một ai đó lạ gặp bạn trên phố và nói với bạn điều gì đó tương tự như vậy, bạn nên lờ đi những gì anh ta nói và đi tiếp. Thậm chí, bạn có thể thông báo điều này với công an khu vực. Ai có thể tin một người chúng ta chưa từng gặp? Tuy vậy, scam trực tuyến cũng gần giống như vậy và đã lừa được hàng ngàn người đưa tiền cho chúng theo các cách khác nhau. Dường như, ở cuộc sống đời thường mọi người rất thông minh, nhưng khi trực tuyến thì họ lại rất dễ bị lừa.

Những scam thông thường hay lấy tên như Nigerian scam hay 419 scam. Ngoài ra, còn rất nhiều dạng khác nữa của scam nhưng mục đích chính của chúng là lừa đảo mọi người đưa cho chúng càng nhiều tiền càng tốt, cùng với các thông tin tài khoản ngân hàng của bạn. Cùng với đó là hàng ngàn các scam trực tuyến khác. Một số thì giống Nigerian scam nhưng một số khác thì lại khác hoàn toàn. Một số thậm chí còn cài đặt chương trình chứa mã độc là malware trên máy tính của bạn và trở thành vấn đề dai dẳng.

Cách tốt nhất để giải quyết scam trực tuyến là tránh xa chúng hoàn toàn. Như vậy, bạn sẽ không phải khôi phục lại những sự cố mà chúng gây ra. Chính vì lý do này, chúng tôi sẽ hướng dẫn bạn các bước để nhận dạng một scam để bạn không trở thành nạn nhân của chúng. Tiếng anh có câu: "if it sounds too good to be true, it probably is." (nếu điều nào đó nghe quá hay, quá tốt đẹp đến nỗi như không thể thành sự thật, điều đó có thể đúng là không có thật.)

Chiến thuật của Scam Internet

Hầu hết các scam thường bám lấy những đức tính căn bản của con người trong cuộc sống. Rất nhiều điều không phải là thổi phồng. Chúng bao gồm những đặc điểm như nỗi sợ hãy, tính kiêu căng tự phụ và tính tham lam. Nghệ thuật lừa đảo đã tận dụng những đặc điểm này từ hàng trăm năm nay, dựa trên lòng tham của con người và bạn có thể thuyết phục họ vui là buồn và lạnh là nóng.

Điều này cũng có nghĩa là hầu hết những scam trực tuyến có rất ít dấu hiệu. nếu bạn nhận một tin nhắn hoặc lời mời truy cập một trang web cho rằng bạn sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm nếu không tải một số ứng dụng, đây chỉnh là dấu hiệu của một scam. Những thông báo như thế này thường dựa vào nỗi sợ hãi của con người. Tất nhiên, bạn không hề muốn máy tính của mình bị nhiễm virut. Nhưng, những ứng dụng này thường là virut ẩn danh hay một loại nào đó của malware. Hãy cảnh giác cao độ với những thông báo đáng nghi như thế và nhớ tìm hiểu kĩ về bất kì một ứng dụng nào trước khi tải và cài đặt nó.

Hầu hết trong chúng ta không nghĩ rằng mình có tính tự đắc. Tuy nhiên, hãy thử tưởng tượng rằng bạn đang trên mạng xã hội và nhận được một thông báo có chứa đường link, cho rằng “You won't believe how great you look in this video!” (Bạn không thể tưởng tượng rằng bạn trông tuyệt vời thế nào trong video này đâu!). Hầu hết chúng ta sẽ truy cập đường link đó ngay lập tức để xem đoạn video, nhất là khi chúng ta lo rằng nó trông rất hài hước. Có rất nhiều người và tổ chức trên mạng xã hội, bạn không thể biết được ai đó sẽ bị xem.

Những “nghệ nhân” scam nắm bắt được tâm lý mọi người rằng họ rất lo lắn về những tấm hình của mình trên mạng. Đó chính là lý do tại sao chúng sử dụng những thông báo kiểu như thế trên để lừa mọi người truy cập những video giả mạo. Trong nhiều trường hợp, có nhiều video xuất hiện cùng với một cửa sổ pop-up. Cửa sổ này thông báo rằng người dùng không có đúng chương trình chạy video cho đoạn video này và yêu cầu người dùng tải và cài đặt một phần mềm, sau đó video sẽ được hiển thị. Tuy nhiên, chương trình này sẽ hiển thị là malware giả mạo sau đó.

Một số malware có thể gây một số khó khăn nếu bạn cài đặt chúng trên máy tính của mình. Ứng dụng khó phím có thể sao chép mọi thông tin bạn gõ trên bàn phím và gửi ngay thông tin về cho “nghệ nhân” scam. Những người này sẽ lọc bỏ những thông tin bạn gõ trên phím và dễ dàng tìm ra thông tin cá nhân như tên người dùng cũng nwh mật khẩu mà bạn truy cập một trang web nào đó, bao gồm tài khoản ngân hàng hay một trang mua sắm trực tuyến nào đó. Một số khác có thể truy cập trực tiếp vào máy tính của bạn với cracker – một hacker malicious. Cracker này có thể kiểm soát máy tính của bạn mà bạn không để ý tới.

Đâu là một scam?

Không phải tất cả scam lừa mọi người dựa vào lòng tham hoặc tính tự đắc của họ. Một số còn dựa vào lòng vị tha của con người. Scam từ thiện rất phổ biến trên Internet. Vì vậy, bạn nên tìm hiểu kĩ về bất kì lời yêu cầu làm từ thiện nào trước khi quyên góp tiền.

Trong số những chiến thuật scam sử dụng để “săn mồi”, lòng tham thường là chiến thuật hay được sử dụng nhất. Những scam này thường hứa hẹn trả một lượng tiền lớn nếu nạn nhân chịu đầu tư một khoản tiền nhỏ. Điều này có nghĩa là lấy một thứ gì đó mà không mất gì cả. Rất nhiều “nghệ nhân” scam sử dụng email để săn mồi. Chúng sẽ gửi hàng tram, thậm chí hàng triệu email tới những nạn nhân tiềm năng. Nếu như thành công chỉ với một phần nhỏ trong số những email mà chúng gửi đi, số tiền lừa được cũng rất lớn.

Khi nhận được một lời mời trên mạng, hãy dành chút thời gian để phân tích nó. Một chút thời gian để suy nghĩ nhưng lại có thể giữ lại tiền cho bạn. Không nên tin vào những đường dẫn hoặc những chứng nhận được gửi kèm theo lời mời. Ngoài ra, hãy tự tìm kiếm thông tin để xác nhận lời mời này có đáng tin cậy hay không. Một số lời mời rất thành thật, trong khi một số khác lại cố gắng thu hút bạn vào scam pyramid scheme (scam theo hình kim tự tháp) hay scam pump-and-dump (lừa đảo chứng khoán qua email).

* Một số dấu hiệu dễ phát hiện của scam lừa đảo:

• Một thông báo yêu cầu bạn phải hành động ngay: "You must act now!"

• Một lời hứa kiếm được lợi nhuận cao trong một khoảng thời gian ngắn

• Sử dụng nhiều thuật ngữ và biệt ngữ

• Khẳng định là thông tin mật hoặc một lời thổ lộ tâm tình

Những “nghệ nhân” scam sẽ cố gắng dùng bất kì điều gì để thuyết phục bạn đưa tiền cho chúng. Gần đây, một số scam thậm chí còn tự xưng là đại diện của chính phủ Mỹ. Chúng gửi tin nhắn tới những nạn nhân tiềm năng với một lời mời đóng góp cho gói kích cầu kinh tế giúp vượt qua giai đoan khủng hoảng kinh tế.

Một số nạn nhân tiềm năng đã quay lại để lừa lại những “nghệ nhân” scam. Một trang web có tên 419 Eater đã thuyết phục mọi người đã bị scam tham gia chống lại scam - scambaiting. Trang web này định nghĩa scambaiting là thu hút những “nghệ nhân”scam khiến chúng mất thời gian và công sức. Một số còn thuyết phục chúng đi một chặng đường dài. Thế mới biết rằng những “nghệ nhân” scam cũng tham lam không kém gì nạn nhân của chúng.

Luôn luôn cẩn thận, không nên tin bất kì thứ gì bạn đọc và hãy nhớ nghĩ thật kĩ trước khi kích vào bất kì thứ gì. Như vậy, bạn mới có thể tránh được mưu mẹo của những kẻ lừa đảo.

Lamle (Howstuffwork.com) - Quản Trị Mạng
Cách download video Full HD 1080p trên YouTube
YouTube vừa hỗ trợ các đoạn video với định dạng Full HD 1080p có độ phân giải 1080 pixel. Bạn sẽ được xem những video độ phân giải cao có kích thước toàn màn hình ngay trên YouTube.

Vì lí do nào đó (thí dụ như tốc độ đường truyền của bạn không cao,...) nên bạn muốn download các video độ nét cao này về máy tính để xem. Mình xin giới thiệu với các bạn một cách đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn để download những video Full HD 1080p trên YouTube.

Đầu tiên, bạn vào đây và click nút Add to Firefox > tiếp tục click nút Add to Firefox > click nút Allow > click Install Now để download và cài cặt add-on Easy YouTube Video Downloader 2.1. Sau khi cài đặt, hãy khởi động lại Firefox.

Thí dụ, bạn muốn download trailer phim Avatar, bạn mở URL http://www.youtube.com/watch?v=2v-svozQvc4 bằng Firefox:

Cách download video Full HD 1080p trên YouTube

Click Full-HD ở sibebar phía trên - bên phải để download video Full HD 1080p:



Cách download video Full HD 1080p trên YouTube

Cách download video Full HD 1080p trên YouTube

Sau khi download xong, bạn thêm phần mở rộng .mp4 vào tên file rồi bắt đầu thưởng thức:

Cách download video Full HD 1080p trên YouTube

Các hình thái thể hiện của E-MarketingPop-up: Quảng cáo xuất hiện dưới dạng một cửa sổ mới trước, trong, hoặc sau khi người dùng mở một trang web.
Pop-under: Quảng cáo xuất hiện dưới dạng một cửa sổ mới, nằm dưới cửa sổ hiện hành, do đó khi người sử dụng đóng cửa sổ hiện hành sẽ nhìn thấy quảng cáo.
Quảng cáo trung gian (interstitials): Một trang web được mở ra để thu hút sự chú ý của người dùng nhưng chỉ trong thời gian ngắn khi những nội dung khác đang được tải về
Bản tin điện tử (newsletters)
  • Là cách để giữ liên hệ với khách hàng
  • Note: phải cung cấp công cụ để khách hàng đồng ý nhận bản tin từ DN (opt-in)
  • Vấn đề cơ bản: Thông tin
Email
Sử dụng thư điện tử gửi trực tiếp đến những khách hàng tiềm năng
Lưu ý: Opt-in/ Opt-out
  • Opt-in: Khi khách hàng đã đồng ý nhận email quảng cáo
  • Opt-out: Gửi email khi khách hàng chưa đồng ý về vấn đề Spam
Marketing lan tỏa (Viral marketing): Marketing từ khách hàng: khách hàng giới thiệu sản phẩm, dịch vụ với người khác
Sự kiện trực tuyến: Hình thức tổ chức các sự kiện như cuộc thi, đố vui, phỏng vấn trực tuyến trên website của doanh nghiệp để thu hút nhiều người tham gia và biết đến website
Marketing liên kết (affiliate program): Giới thiệu khách hàng sang website công ty khác/ từ website công ty khác đến công ty mình
Banner: Liên kết được thể hiện bởi hình ảnh và các hiệu ứng
Text Link: Liên kết được thể hiện bởi ký tự
Đăng ký trên các công cụ tìm kiếm Chủ yếu: Google, Yahoo
SEO, SEM: Tối ưu hóa website trên công cụ tìm kiếm.

Xác định đúng mục đích để vận dụng E-Marketing hợp lý, đánh giá kết quả mang lại:
1. Mục đích: Thu lại hình ảnh thương hiệu, xâm chiếm tâm trí khách hàng.
  • Vận dụng: Banner, Pop-up, Pop-under, Email…
  • Đánh giá kết quả mang lại: Độ bao phủ của hình ảnh thương hiệu, mật độ xuất hiện của hình ảnh thương hiệu trên các phương tiện…
2. Mục đích: Mục tiêu là lượng truy cập, kéo khách hàng tiềm năng vào website.
  • Vận dụng: Link back, text link, bài viết PR, diễn đàn…
  • Đánh giá kết quả mang lại: Số lượng khách truy cập website, số lượng khách hàng liên hệ…
Tùy theo ngân sách và mục đich muốn đạt để sử dụng các hình thức E-Marketing cho phù hợp.